Ông Trương Văn Sáu, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long – nơi vừa tổ chức hội nghị bàn chuyện sản xuất lúa vụ hè thu, đã bày tỏ mối lo khi chính quyền địa phương này năm vừa qua đã đưa ra khuyến cáo sử dụng giống lúa không trúng. Ông nói với đại diện Bộ Nông nghiệp và PTNT, việc làm này có thể làm mất uy tín chính quyền với dân, những lần khuyến cáo sau dân sẽ không nghe nữa.
Cũng lại là chuyện giống lúa IR 50404. Năm ngoái, khi thị trường gạo xuất khẩu gặp khó khăn, thương lái đi mua lúa căng biển trên ghe “không mua lúa IR 50404”. Người trồng lúa IR 50404 phải ôm hàng tồn đọng hoặc phải chịu lỗ lã bán tháo. Vậy là cơ quan quản lý ngành nông nghiệp, ủy ban nhân dân nhiều địa phương đưa ra khuyến cáo, thậm chí có địa phương chỉ đạo cấm trồng giống lúa này. Trớ trêu là đầu năm nay thương lái cũng đưa ghe đi mua lúa, nhưng lần này lại căng biển “chỉ mua lúa IR 50404”. Câu chuyện này được đại diện Sở Nông nghiệp và PTNT Đồng Tháp nêu ra như dẫn chứng về sự lúng túng của ngành trong công tác tuyên truyền hướng dẫn người dân sử dụng giống lúa.
Thực tế hiện nay người nông dân chỉ có cách theo tín hiệu thị trường phát ra từ thương lái – là người mua lúa trực tiếp từ nông dân để cung cấp cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Các công ty xuất khẩu gạo quốc doanh có sản lượng kinh doanh hàng năm đến hàng trăm ngàn tấn cũng phải thừa nhận chưa thể tổ chức mua lúa, mà ngồi chờ thương lái mua gom lúa về, xay xát chế biến… thậm chí giao đến tận mạn tàu cho công ty xuất khẩu. Đến lượt mình, thương lái dựa vào hợp đồng xuất khẩu để chọn mua lúa để chế biến ra loại gạo có phẩm cấp tương ứng. Nếu hợp đồng xuất khẩu yêu cầu loại gạo có tỉ lệ tấm thấp thì chọn loại lúa tốt để làm ra gạo ít hạt gãy vỡ. Ngược lại, với hợp đồng xuất loại gạo tỉ lệ tấm cao thì họ sẽ chọn nhiều lúa chất lượng thấp hơn, giá mềm hơn, mà loại này phổ biến là giống IR 50404.
Trao đổi với Nông Thôn Ngày Nay, Tiến sĩ Bùi Chí Bửu – người vừa được Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI) trao tặng giải thưởng khoa học mang tên Dharmawansa Senadhira, cho rằng mấu chốt là gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn chủ yếu là gạo pha tạp từ nhiều chủng loại giống, phân loại phẩm cấp theo tỉ lệ tấm. Trong khi các nước khác xuất khẩu gạo thường là những loại có giống thuần chủng, chẳng hạn trong hợp đồng mô tả “gạo trắng hạt dài”, hoặc gạo Jasmine, Basmati…
Để có gạo xuất khẩu như các nước, đòi hỏi doanh nghiệp xuất khẩu phải tham gia toàn bộ quá trình sản xuất ra hạt gạo. Chính các doanh nghiệp này phải đầu tư giống lúa cho nông dân theo những vùng chuyên canh và đảm bảo bao tiêu sản phẩm. Thực tế ở Việt Nam đã có mô hình tương tự rất hiệu quả nhưng sản lượng hàng năm mới chỉ vài chục ngàn tấn. Nếu mô hình này được nhân rộng, chiếm tỉ trọng lớn trong hơn 4 triệu tấn gạo xuất khẩu của Việt Nam thì có lẽ sẽ không còn những câu chuyện khó ăn khó nói giữa cơ quan quản lý nhà nước với nông dân như kể trên.
(đăng trên NÔNG THÔN NGÀY NAY)

0 Bình luận